Tìm kiếm tin tức
Đơn vị hỗ trợ

 

Thống kê truy cập
Tổng truy cập 5.348.857
Truy câp hiện tại 4.018
Sơ kết 3 năm (2011 – 2013) thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới tỉnh Thừa Thiên Huế
Ngày cập nhật 05/08/2013

Thực hiện Công văn số 10/BCĐTW ngày 27 tháng 5 năm 2013 của Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới về việc Báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới; Ban Chỉ đạo Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới tỉnh Thừa Thiên Huế báo cáo cụ thể như sau:

I. KẾT QUẢ TRIỂN KHAI  CHƯƠNG TRÌNH   
 Tỉnh Thừa Thiên Huế có diện tích tự nhiên 5.053,59km2, dân số 1.134.500 người. Toàn tỉnh có 152 phường, xã (47 phường, thị trấn và 105 xã), có 38 xã miền núi vùng cao. Trong 105 xã, Quy hoạch xây dựng nông thôn mới 92 xã, (13 xã quy hoạch phát triển thị trấn).
Mục tiêu của tỉnh phấn đấu đến năm 2015 cao hơn mức bình quân chung của cả nước trên 20%,  năm 2020 trên 50% xã đạt chuẩn về nông thôn mới; Giai đoạn 2011-2015 chọn 2 huyện Nam Đông và Quảng Điền là chỉ đạo điểm và mỗi huyện, thị xã chọn từ 1- 2 xã phấn đấu đạt chuẩn NTM.
1. Về công tác chỉ đạo, điều hành quản lý
1.1. Kết quả lập và hoạt động của Ban chỉ đạo (BCĐ) và bộ phận giúp việc BCĐ ở các cấp tỉnh, huyện, thị xã từ khi triển khai Chương trình. Đến nay, hệ thống tổ chức bộ máy của Chương trình xây dựng nông thôn mới từ tỉnh đến huyện, thị xã và các xã đã được thành lập, kiện toàn và đi vào hoạt động có hiệu quả, một số thôn bản, thành lập Ban phát triển và vận động xây dựng nông thôn mới, cụ thể:
- Cấp tỉnh: Thành lập Ban chỉ đạo Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới theo Quyết định số 187/QĐ- UBND ngày 07/10/2010 của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế. Trưởng ban là đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh, 2 Phó trưởng ban là đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh và đồng chí Giám đốc Sở nông nghiệp & PTNT. Thành viên có 30 đồng chí là lãnh đạo các Sở, Ban Ngành, các tổ chức Đoàn thể chính trị - xã hội của tỉnh.
Thành lập Văn phòng điều phối Chương trình nông thôn mới do phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT làm chánh Văn phòng và Chi cục Trưởng chi cục Phát triển nông thôn làm phó Văn phòng và các cán bộ của các Sở, Ban, Ngành có liên quan tham gia vào Văn phòng điều phối; làm việc theo chế độ kiêm nhiệm. Đồng thời Văn phòng điều phối bố trí 3 cán bộ chuyên trách, trong đó cử một phó Văn phòng chuyên trách.
- Cấp huyện: Thành lập Ban chỉ đạo Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới do đồng chí chủ tịch UBND huyện (thị xã) làm trưởng ban, 2 phó trưởng ban là đồng chí Phó Chủ tịch UBND huyện (thị xã) và đồng chí Trưởng phòng nông nghiệp (Trưởng phòng Kinh tế). Thành viên Ban chỉ đạo có từ 21-24 đồng chí là lãnh đạo các phòng, ban, các tổ chức kinh tế xã hội và đoàn thể của huyện (thị xã).
Thành lập Tổ giúp việc cho Ban chỉ đao của huyện (thị xã). Tổ trưởng là đồng chí Phó Trưởng phòng nông nghiệp (Phó Trưởng phòng Kinh tế), tổ viên có tù 10-14 đồng chí là Chuyên viên của các phòng ban thuộc huyện (thị xã).
- Cấp xã: Thành lập Ban chỉ đạo xây dựng nông thôn mới do đồng chí Bí thư Đảng uỷ xã làm trưởng ban, thành viên là cán bộ của các ngành, các đoàn thể của xã và bí thư chi bộ các thôn (bản).
Thành lập Ban Quản lý xây dựng nông thôn mới do đồng chí chủ tịch UBND xã làm trưởng ban, phó trưởng ban là đồng chí Phó Chủ tịch UBND xã, thành viên là cán bộ của các ngành, các đoàn thể của xã, thôn trưởng các thôn (bản).
Thành lập Ban phát triển thôn do đồng chí bí thư chi bộ thôn (bản) làm trưởng ban, thành viên là những người có uy tín, có năng lực và am hiểu về xây dựng nông thôn mới ở các thôn (bản).
1.2. Về việc ban hành các văn bản điều hành Chương trình:    
Tham mưu cho UBND tỉnh trình Thường vụ Tỉnh uỷ ban hành Chương trình hành động số 22/CTr-TU thực hiện Nghị quyết số 26/NQ-TW của Trung ương Đảng lần thứ 7, khoá X “về nông nghiệp, nông dân, nông thôn”.
Đại hội Đại biểu tỉnh Đảng bộ lần thứ 14 tỉnh Thừa Thiên Huế đã ban hành Nghị quyết về phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của tỉnh TT Huế; trong đó đặt chỉ tiêu phấn đấu xây dựng Nam Đông và Quảng Điền trở thành 2 huyện đạt chuẩn Nông thôn mới vào năm 2015. Đồng thời các cấp uỷ Đảng của các cấp đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về thực hiện xây dựng nông thôn mới.
Năm 2010 tham mưu cho UBND tỉnh trình Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân tỉnh ban hành các Nghị quyết, như: Nghị quyết số 01/NQ-TU ngày 06/12/2010 của Tỉnh uỷ; Nghị quyết số 15c/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh về nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2011 và triển khai Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới.
Ngày 07/10/2010 UBND tỉnh Thừa Thiên Huế ban hành Quyết định số 187/QĐ-UBND thành lập Ban Chỉ đạo Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới. Trưởng ban là đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh, 2 Phó Trưởng ban là đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh và đồng chí Giám đốc Sở nông nghiệp và PTNT. Thành viên có 30 đồng chí là lãnh đạo các Sở, Ban, Ngành, các tổ chức kinh tế - xã hội và Đoàn thể của tỉnh.
Ngày 20/01/2011 Ban Chỉ đạo Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới tỉnh có Quyết định số 03/QĐ-BCĐ thành lập Tổ giúp việc thực hiện Chương trình nông thôn mới cho Ban Chỉ đạo tỉnh. Tổ trưởng là đồng chí Chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn và Quản lý chất lượng nông lâm thủy sản, thành viên có 13 đồng chí là Chuyên viên của các Sở, Ban, Ngành và của Chi cục.
Ngày 01/01/2011 UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 01/KH-UBND về triển khai thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới và đảm bảo an sinh năm 2011.
Ngày 01/01/2012 UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 01/KH-UBND về triển khai thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới và đảm bảo an sinh năm 2012.
Ngày 28 tháng 12 năm 2012 UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 2491/QĐ-UBND về việc ban hành Khung hệ thống giám sát đánh giá Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới tỉnh Thừa Thiên Huế giái đoạn 2012 – 2015.
Ngày 27/12/2013 UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 112/KH-UBND về triển khai thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới và đảm bảo an sinh năm 2013. 
Ngày 28/9/2012 UBND tỉnh ban hành Quyết định số 32/QĐ-UBND về Quy định tạm thời cơ chế chính sách huy động nguồn lực xây dựng cơ sở hạ tầng xây dựng nông thôn mới tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2012-2015. 
Ngày 21/5/2013 UBND tỉnh ban hành Công văn số 2385/UBND-XDKH về Hướng dẫn tạm thời áp dụng cơ chế đầu tư đặc thù thực hiện Chương trình MTQG  xây dựng nông thôn mới. 
Ngày 13 tháng 5 năm 2013 UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 899/QĐ-UBND về việc thành lập Văn phòng điều phối Chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020.
Ban chỉ đạo tỉnh đã ban hành một số văn bản hướng dẫn trình tự thực hiện công tác lập, phê duyệt Quy hoạch, đề án nông thôn mới. Tập huấn cho cán bộ các cấp về chủ trương, chính sách, các nội dung thực hiện công tác xây dựng nông thôn mới; phân công cụ thể cho các thành viên trong Ban chỉ đạo, Tổ giúp việc, Ban quản lý để thực hiện quản lý, kiểm tra, giám sát đánh giá tình hình, kết quả trong quá trình thực hiện xây dựng nông thôn mới. Hàng tháng Ban chỉ đạo Tỉnh tổ chức họp giao ban để đánh giá tình hình thực hiện ở các địa phương.
2. Công tác tuyên truyền, vận động
Công tác vận động, tuyên truyền về xây dựng nông thôn mới được thực hiện thường xuyên sâu, rộng đến tận thôn, bản; các xã tổ chức triển khai dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú. Thông qua các cuộc tập huấn để phổ biến đến tận người dân biết hiểu rõ hơn mục đích, nội dung, cơ chế chính sách của Đảng, Nhà nước, của địa phương về xây dựng nông thôn mới.
Ban chỉ đạo huyện, thị xã đã triển khai thực hiện cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư, gắn với xây dựng nông thôn mới và đã tổ chức lễ phát động “ Toàn dân chung sức xây dựng nông thôn mới”.
Tổ chức cho cán bộ các cấp nhiều đợi tham quan, học tập kinh nghiệm, áp dụng những giải pháp hay để chỉ đạo địa phương mình.
Đã xây dựng 28 pano, in ấn 20.000 tờ rơi và băng rôn, khẩu hiệu để tuyên truyền; cung cấp thông tin thường xuyên cho Ban tuyên giáo của Tỉnh uỷ để hàng tháng đăng tải “Thông báo nội bộ” đánh giá tiến độ thực hiện Chương trình; Phối hợp với Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế viết về chủ đề Chương trình nông thôn mới; Hàng tuần trên đài phát thanh - truyền hình TRT đưa tin, bài về chuyên đề xây dựng nông thôn mới. Tổ chức Hội thảo Doanh nghiệp tỉnh Thừa Thiên Huế hỗ trợ cho các xã xây dựng nông thôn mới. Người dân đã đóng góp tiền của, công lao động, hiến hàng ngàn m2 đất vườn, tự nguyện dỡ bỏ hàng rào, công trình phụ, cây cối, hoa màu để mở rộng đường giao thôn nông thôn.
Nhiều tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội đã tổ chức nhiều hoạt động thiết thực giúp các địa phương thực hiện Chương trình như: Mặt trận Tổ quốc Tỉnh đã phát động phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” gắn với Chương trình xây dựng nông thôn mới, đã được triển khai sâu rộng trong nhân dân. Mặt trận kêu gọi các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội ủng hộ giúp đỡ “ngày vì người nghèo”; hỗ trợ giúp đỡ xoá nhà tạm. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chuyên môn xây dựng nhà tái định cư, các hộ dân ảnh hưởng thiên tai, góp phần chỉnh trang quy hoạch dân cư nông thôn.
Hội Nông dân giúp đỡ các hội viên sản xuất giỏi, nâng cao thu nhập; đã vận động nông dân góp đất không đền bù xây dựng hạ tầng nông thôn, đã đóng góp 28.814 ngày công, làm mới 112,9 km đường bê tông trục thôn, nâng cấp 58 km kênh mương phục vụ tưới tiêu.
Hội Phụ nữ tỉnh chỉ đạo, tổ chức các hoạt động như hỗ trợ phụ nữ vay vốn phát triển kinh tế gia đình; “ Phụ nữ giúp nhau làm kinh tế”; “Chương trình hỗ trợ phụ nữ tạo việc làm, tăng thu nhập”; đã huy động được 400 triệu đồng để xóa nhà tạm cho 22 hộ nghèo; tổ chức 336 lớp tập huấn cho 14.862 lượt cán bộ, hội viên về nước sạch, vệ sinh môi trường…,vận động hội viên thực hiện phong trào “05 không 3 sạch”, gắn với nông thôn mới; 5 tháng đầu năm 2013 các cấp Hội đã giải ngân vốn 23,241 tỷ đồng cho 3.697 thành viên vay vốn là phụ nữ nghèo để phát triển kinh tế gia đình. Vận động xây dựng quỹ “Mái ấm tình thương” được 133,5 triệu đồng, hỗ trợ xây dựng 10 nhà tình thương 200 triệu đồng, Phong trào phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế gia đình đã vận động được 198,6 triệu đồng và 2.616 ngày công; 168 con giống, 930 cây giống. Thành lập Tổ tiết kiệm hàng tháng đã huy động được 172,9 triệu đồng cho hội viên vay phát triển chăn nuôi.
 Hội cựu chiến binh tham gia vận động khu dân cư giữ gìn an ninh, trật tự, vận động người dân thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tham gia cải tạo môi trường.
Hội người cao tuổi đã ký giao ước thi đua với Thường trực Ban chỉ đạo Chương trình nông thôn mới, vận động con cháu trong gia đình, bà con thôn xóm tham gia hưởng ứng phong trào NTM, thực hiện nếp sống văn minh, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Thường vụ Tỉnh đoàn tổ chức Lễ phát động ‘Tuổi trẻ Thừa Thiên Huế chung tay xây dựng nông thôn mới”; bằng các việc làm cụ thể như: chỉ đạo các đoàn cơ sở thực hiện chương trình thanh niên 40 tuyến đường xanh – sạch – đẹp; đã tổ chức 158 đợt ra quân với hơn 15.835 đoàn viên tham gia thu gom hơn 32,5 tấn rác thải làm sạch đẹp đường làng ngõ xóm; hướng dẫn bà con xây dựng hàng rào xanh, trồng cây xanh trên các trục đường liên xã.
Kinh phí thực hiện công tác tuyên truyền vận động trong 3 năm là 4,75 tỷ đồng, từ nguồn vốn của Chương trình (Nguồn vốn của Trung ương).
Đánh giá chung:
Phong trào “Toàn dân chung tay xây dựng nông thôn mới” được các huyện, thị xã, các xã tổ chức thực hiện tốt. Thường xuyên tuyên truyền các nội dung Chương trình, qui hoạch và đề án xây dựng nông thôn mới sâu, rộng đến tận thôn bản, các điểm dân cư; tạo điều kiện cho mọi người dân nắm bắt được thông tin để tham gia thực hiện.
Thông qua công tác tuyên truyền hầu hết đội ngũ cán bộ ở các cấp và người dân có nhận thức sâu sắc trong công tác chỉ đạo và thực hiện xây dựng nông thôn mới;  hầu hết người dân hưởng ứng rất tích cực: đóng góp công sức, tiền của, cống hiến đất đai, tài sản… để chỉnh trang, nâng cấp giao thông nông thôn; tu sữa nơi ở và các công trình công cộng; tham gia hoạt động văn hóa, văn nghệ ở thôn, bản... Hai năm qua ở các địa phương, người dân đã đóng góp hàng chục tỷ đồng, hiến hàng ngàn m2 đất ở, tự nguyện dỡ bỏ hàng rào, công trình phụ, cây cối, hoa màu cho mở rộng đường giao thông nông thôn (Điển hình như ở xã Hương Giang, Hương Hòa huyện Nam Đông; Xã Quảng Phú, Quảng An huyện Quảng Điền…) để chỉnh trang thôn, bản.
Tuy nhiên, công tác tuyên truyền, vận động người dân tham gia Chương trình ở một số thôn xã chưa thực sự đến với mọi người dân, một số cán bộ ở cơ sở nhận thức về nông thôn mới còn hời hợt. Năng lực chỉ đạo, lãnh đạo điều hành của các xã còn hạn chế, thiếu tính chủ động và quyết tâm; nhiều xã, thôn bản còn tư tưởng ỷ lại. Công tác huy động vốn từ người dân gặp nhiều khó khăn do mức sống của người dân thấp, nhất là những thôn bản, xã ở miền núi, vùng sâu vùng xa.

3. Công tác đào tạo, tập huấn   
BCĐ tỉnh, huyện, thị xã đã tổ chức tập huấn cho các thành viên tham gia Chương trình xây dựng nông thôn mới ở cấp tỉnh, huyện, thị xã, xã, thôn đúng với khung chương trình và các chuyên đề đã được Ban Chỉ đạo Trung ương phê duyệt. Với hơn 60 lớp tập huấn, thời gian từ 3-5 ngày/lớp, với trên 3.400 lượt cán bộ cấp tỉnh, huyện, thị xã, xã tham gia. Ngân sách Trung ương đã chi 2,242 tỷ đồng. 
Hội Nông dân tỉnh cũng đã triển khai được 20 lớp tập huấn cho gần 1.000 lượt người, đối tượng là các Chi hội trưởng, Phó trưởng Hội nông dân cơ sở để vận động tham gia thực hiện Chương trình xây dựng NTM.
Nhìn chung, Công tác tập huấn cho cán bộ chỉ đạo và vận hành Chương trình xây dựng NTM cho cán bộ từ huyện đến thôn bản trong 3 năm thực hiện tốt nhưng kinh phí hạn chế, nên chỉ tập huấn được cho một số cán bộ chủ chốt ở các cấp.
4. Về huy động nguồn lực:
Trong 3 năm tuy nguồn vốn đầu tư hỗ trợ của Chương trình xây dựng NTM của Trung ương bố trí rất hạn chế được 55,411 tỷ đồng; nguồn lồng ghép từ các Chương trình Mục tiêu Quốc gia khác 176,030 tỷ đồng; nguồn ngân sách của địa phương đầu tư 436,942 tỷ đồng (từ nguồn hỗ trợ có mục tiêu,vốn xổ số kiến thiết, vốn vay ưu đãi).Tổng số vốn huy động: 668,383 tỷ đồng, đã thực hiện các nôi dung:
    - Lập quy hoạch nông thôn mới:                 16,401 tỷ đồng.
    - Hỗ trợ phát triển sản xuất:                         7,840 tỷ đồng.
    - Đào tạo tập huấn cán bộ làm công tác NTM:            2,242 tỷ đồng.
    - Công tác tuyên truyền và quản lý Chương trình:         4,750 tỷ đồng.
    - Công tác giám sát đánh giá Chương trình:                 0,50  tỷ đồng.
    - Xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu:                          636,650 tỷ đồng.
           Các cơ sở hạ tầng thiết yếu được đầu tư xây dựng trong năm 2011-2013, gồm các hạng mục: Khu tái định cư; công trình giao thông; thủy lợi; nhà văn hoá thôn; trường học  và các công trình phụ trợ; nhà văn hoá xã; trụ sở HĐND và UBND xã; công trình y tế; điện sinh hoạt...
Nguồn vốn    Năm 2011    Năm 2012    Năm 2013    Cộng
              Tổng số       (tỷ đồng)    184,495    204,872    279,016    668,383
Vốn Chuơng trình NTM (NSTW)    17,242    19,909    18,260    55,411
Vốn CT Mục tiêu QG khác    50,207    63,500    63,323    176,030
Vốn của tỉnh đầu tư    117,046    121,463    198,433    436,942
    - Hỗ trợ có mục tiêu    8,046    61,463    38,433    186,942
    - Vốn Xổ số kiến thiết(XDCB)            15,000    15,000
    - Vốn vay ưu đãi của NN    30,000    60,000    145,000    235,000
Riêng năm 2013 tuy điều kiện kinh tế gặp nhiều khó khăn, nguồn vốn bố trí của Trung ương rất hạn chế, song với sự nỗ lực của tỉnh đã huy động nhiều nguồn lực phục vụ cho Chương trình XDNTM. Tổng các nguồn vốn năm 2013 là 279,016 tỷ đồng.
Ngoài nguồn vốn ngân sách của Trung ương, của tỉnh đã tổng hợp trên; các huyện, thị xã đã huy động thêm nguồn vốn của địa phương (trừ huyện Phong Điền chưa báo cáo), đầu tư lồng ghép thực hiện các hạng mục thuộc Chương trình xây dựng nông thôn mới là 98,96 tỷ đồng;  huy động nguồn vốn do dân đóng góp bằng tiền và hoa màu, tài sản trên 125,9 tỷ đồng, trên 12.500 ngày công lao động và 92.000 m2 đất. Huyện Nam Đông huy động được vốn của tổ chức nước ngoài 2,9 tỷ đồng và của 01 doanh nghiệp 1 tỷ đồng để xây dựng hạ tầng cho Công ty chế biến Cao su đóng trên địa bàn huyện.
Đánh giá chung: Tuy nhiên, Chương trình triển khai trong giai đoạn suy thoái kinh tế toàn cầu, nguồn lực đầu tư của Trung ương hạn chế, nhưng với sự nỗ lực của địa phương đã lồng ghép và huy động nhiều nguồn vốn khác đầu tư nhiều hạng mục công trình thiết yếu cho khu vực nông thôn. Hệ thống hạ tầng cơ sở phục vụ phát triển sản xuất và phát triển kinh tế - xã hội được nâng cấp cải tạo đáp ứng nhu cầu. Chương trình đã làm chuyển biến được nhận thức của người dân, xã hội hóa được các kênh đầu tư cho nông thôn; vai trò người dân “là chủ thể của Chương trình” đã được phát huy.
II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC NỘI DUNG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1. Công tác lập Quy hoạch, đề án xây dựng NTM
1.1. Lập Quy hoạch xây dựng nông thôn mới: Đến nay các huyện, thị xã đã phê duyệt xong Quy hoạch xây dựng nông thôn mới cho 92/92 xã, chậm so với kế hoạch chỉ đạo của tỉnh, nhưng với toàn quốc là một trong những tỉnh hoàn thành Quy hoạch sớm (cả nước mới đạt 68%). Công tác Quy hoạch xã NTM mới chỉ làm tốt Quy hoạch hạ tầng cơ sở, khu trung tâm xã, các khu dân cư; Quy hoạch sử dụng đất, Quy hoạch phân vùng sản xuất còn lúng túng, nhiều Quy hoạch không thể hiện rõ được lợi thế địa phương, ít chú ý đến đưa lợi thế lịch sử, văn hóa, cảnh quan phát triển kinh tế phục vụ du lịch...Công tác thẩm định và phê duyệt đồ án nặng về Quy hoạch xây dựng, nhu cầu kinh phí để xây dựng hạ tầng kỹ thuật của các xã rất lớn, làm mất nhiều đất canh tác, đất ở của người dân, bên cạnh đó Quy hoạch vùng sản xuất, điểm dân cư …chưa phản ánh đúng yêu cầu của người dân, nhìn chung chất lượng chưa cao, chưa phù hợp với thực tế trong phát triển sản xuất và tiêu chuẩn nông thôn mới nên cần phải rà soát điều chỉnh. Kinh phí để thực hiện lập Quy hoạch: 16,401 tỷ đồng do ngân sách Trung ương đầu tư.
1.2. Lập Đề án xây dựng nông thôn mới: Đến nay cả 92 xã đều đã được phê duyệt, tuy nhiên, công tác lập đề án xây dựng nông thôn mới của các xã chậm so với tiến độ, chính quyền chưa thực sự tâm huyết nên đề án lập còn thiếu thực tiễn, chưa bám sát thực tế, chưa thể hiện đúng thực trạng của địa phương; Vì vậy các giải pháp thực hiện đề án tính khả thi chưa cao. Công tác thẩm định phê duyệt đề án chưa sát thực tế của từng địa phương. Các đề án xây dựng nhu cầu kinh phí nặng về xây dựng hạ tầng kỹ thuật bố trí nguồn vốn rất lớn, nhưng nguồn lực dành hỗ trợ cho phát triển sản xuất, ngành nghề nông thôn, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi thành các vùng sản xuất hàng hóa, tăng thu nhập cho người dân bố trí vốn chưa hợp lý.
2. Phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân
Từ nguồn vốn trực tiếp của Chương trình (Ngân sách Trung ương), năm 2011 và 2012, bố trí 4,700 tỷ đồng đầu tư cho 47 xã, xây được 55 mô hình. Trong đó: 28 mô hình trồng trọt, 21 mô hình chăn nuôi, 6 mô hình thủy sản. Tuy nhiên các mô hình thực hiện hiệu quả không cao do đầu tư dàn trải cho các hộ dân theo hình thức để giảm nghèo nên khó có thể nhân ra diện rộng. Qua kiểm tra, có một số mô hình hiệu quả cao và có thể nhân rộng như: Nuôi cá nuớc ngọt kết hợp với các vật nuôi khác và trồng lúa (đầu tư cho 2 hộ trên diện tich 11 ha, với kinh phí hỗ trợ 75 triệu đồng); Nuôi lợn nái F1, lợn thịt ở xã Vinh Hưng (đầu tư cho các hộ có điều kiện, có khả năng để nuôi và chăm sóc đàn lợn theo quy trình nên  đạt được hiệu quả kinh tế cao)…Năm 2013, bố trí 3,140 tỷ đồng đầu tư cho 28 xã điểm và xã Thuỷ Tân để thực hiện 04 cánh đồng mẫu lớn, 31 mô hình trồng trọt, 18 mô hình chăn nuôi, 08 mô hình thuỷ sản, hỗ trợ phát triển 02 làng nghề (Nước mắm ở xã Quảng Công - Quảng Điền; bột lọc ở xã Lộc An - Phú Lộc), hỗ trợ cho 01 cơ sở chế biến mủ Cao su (Phong Mỹ - Phong Điền).
Hiện nay, 02 cánh đồng mẫu lớn sản xuất lúa chất luợng BT7 có kết quả tốt cần nhân rộng, cụ thể: HTX Đông Vinh huyện Quảng Điền sản xuất 25 ha, có 14 ha năng suất đạt 60 tạ/ha, còn lại 11 ha năng suất thấp đạt 44 tạ/ ha, (do bị rầy cuối vụ từ 10% - 30%); xã Thuỷ Thanh thị xã Hương Thuỷ sản xuất 25 ha, năng suất bình quấn đạt 60tạ/ha. Cánh đồng mẫu lớn sản xuất giống lúa 13/2 do xã Quảng Thọ huyện Quảng Điền thực hiện đạt 70 tạ/ha; Cánh đồng mẫu lớn sản xuất giống lúa HT1 do xã Thuỷ Tân thị xã Hương Thuỷ thực hiện trong vụ Hè Thu sớm 25 ha, mới gieo sạ vào ngày 18/4/2013 nên chưa có kết quả. Các mô hình khác, do các xã còn lại mới nhận được Thông báo vốn nên đang triển khai chọn hộ, chọn đơn vị cung ứng vật tư và lập dự toán để trình thẩm định, phê duyệt, đảm bảo các mô hình sẽ thực hiện hoàn thành tốt trong năm 2013.
Ngoài kinh phí trực tiếp của Chương trình xây dựng nông thôn mới, Trung tâm khuyến nông lâm ngư tỉnh đã triển khai sản xuất thử  các giống lúa mới: Hương Dân, DT8, QR2, ND2 với quy mô 12 ha và 06 mô hình lúa chất lượng Hương cốm 4 với diện tích 12 ha ở 6 huyên, thị xã năng suất đạt 50 - 55 tạ/ha. Một số huyện, xã bố trí kinh phí sản xuất giống lúa XT27, kết quả đạt được cho thấy: kháng tốt bệnh đạo ôn, năng suất cao trên chân đất cát pha ven biển và đầm phá có thể thay thể các loại giống đã gieo trồng trước đây: Xi23, IR38… 
Tuy nhiên, công tác chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo hướng sản phẩm hàng hóa hiệu quả, nâng cao thu nhập cho cư dân nông thôn còn chậm; công tác quy hoạch phát triển sản xuất cấp xã chưa gắn kết với quy hoạch vùng. Liên kết sản xuất giữa nông dân - doanh nghiệp và nhà khoa học chậm phát triển. Nguồn vốn vay từ các Ngân hàng người dân khó tiếp cận, khi chưa có cơ chế hỗ trợ lãi suất cho nông dân thì viêc huy động nguồn lực này vào để thực hiện Chương trình gặp rất nhiều khó khăn, nhất là vốn hỗ trợ phát triển sản xuất.   
Công tác tập huấn, đào tạo nghề cho nông dân còn rất hạn chế, từ khi được giao nhiệm vụ (năm 2012) đến nay đã tổ chức được 10 lớp đào tạo nghề cho nông dân như kỹ thuật cạo mủ cao su; kỹ thuật nuôi cá; sản xuất nấm...đã thu hút được hàng trăm lao động nông nghiệp tham gia.
3. Xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu
    Từ nguồn vốn trực tiếp xây dựng nông thôn mới của Trung ương, năm 2011 và 2012, đầu tư 13,600 tỷ đồng để xây dựng 7 công trình (1 trường tiểu học, 4 công trình Giao thông, 1 Nhà văn hóa xã và 1 trường Mầm non), các công trình đang thi công, hoàn thành đúng tiến độ và đã đưa vào sử dụng; năm 2013, đầu tư 10,120 tỷ đồng bổ sung cho 04 công trình xây dựng trong năm 2012 là 5,7 tỷ đồng; xây dựng mới 02 trường mầm non là: 4,42 tỷ đồng.
    Từ năm 2010, cùng với nguồn vốn của Trung ương (năm 2010 chưa có nguồn vốn của Trung ương), Tỉnh đã bố trí lồng ghép các nguồn vốn khác để đầu tư với tổng số vồn: 771,90 tỷ đồng để xây dựng 03 Khu tái định cư, 52 công trình Thuỷ lợi, 303 công trình Giao thông, 02 Nhà văn hoá thôn (nhà sinh hoạt cộng đồng), 30 công trình Trường học và các công trình phụ trợ, 06 Nhà văn hoá xã, 06 công trình Y tế xã, 01 trụ sở HĐND và UBND xã, 01 công trình Điện.
    Theo báo cáo của 7 huyện, thị xã (trừ huyện Phong Điền), các huyện, thị xã đã đầu tư thực hiện các hạng mục thuộc Chương trình xây dựng nông thôn mới là 98,96 tỷ đồng; vốn do dân đóng góp bằng tiền và hoa màu, tài sản trên 125,9 tỷ đồng, trên 12.500 ngày công lao động và 92.000 m2 đất. Riêng huyện Nam Đông huy động được vốn của tổ chức nước ngoài 2,9 tỷ đồng và của 01 doanh nghiệp 1 tỷ đồng để xây dựng hạ tầng cho Công ty chế biến Cao su đóng trên địa bàn huyện.
Sau ba năm thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, bằng nhiều nguồn vốn của nhiều chương trình, lồng ghép nhiều dự án đầu tư trong và ngoài nước nên nhiều công trình thiết yếu như trường học, cơ sở văn hoá, các công trình trụ sở UBND các xã...đã được chỉnh trang, nâng cấp, cải tạo phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tuy nhiên, việc huy động nguồn vốn từ các doanh nghiệp, các huyện, thị xã và các xã gặp rất nhiều khó khăn; các doanh nghiệp chưa có nhu cầu đầu tư.
Công tác huy động nguồn lực do dân đóng góp đạt được hiệu quả cao, ở nhiều địa phương nhân dân đã cống hiến hàng ngàn m2 đất, đóng góp hàng tỷ đồng để xây dựng đường thôn, đường ngõ xóm, nhà văn hoá thôn, chỉnh trang tường rào, cổng ngõ, nhà cửa…khang trang sạch đẹp. Tuy nhiên, việc huy động nguồn lực của nhân dân đóng góp còn hạn chế do vượt quá khả năng của người dân, đặc biệt ở các xã còn nhiều khó khăn và có tỷ lệ hộ nghèo cao. 

4. Về phát triển giáo dục, y tế, văn hoá và bảo vệ môi trường
a) Y tế: Tỷ lệ người dân tham gia các BHYT: 71,62% đạt tiêu chí nông thôn mới; cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo đạt tỷ lệ trên 143% so kế hoạch, cấp 180.262 thẻ khám chữa bệnh cho trẻ em dưới 6 tuổi (100% trẻ); 100% trạm y tế đều có Bác sĩ biên chế tại trạm, hoặc tăng cường; có 98 trạm y tế (87,50%); của các xã đạt chuẩn quốc gia, còn lại 14 xã có trạm y tế, nhưng chưa đạt chuẩn do trang thiết bị, vườn thuôc nam, hàng rào trồng cây xanh...còn thiếu.
b) Văn hóa: Các di tích lịch sử, văn hoá từng bước được đầu tư trùng tu, tôn tạo từ nhiều nguồn vốn. Các hoạt động văn hoá thể thao quần chúng, các lễ hội truyền thống được bảo tồn và phát triển; các thiết chế văn hoá cơ sở được tiếp tục xây dựng và điều chỉnh bổ sung cho phù hợp; đã có 1.135 làng, thôn, bản, được công nhận đơn vị đạt chuẩn văn hóa (tỷ lệ (80,84%). Có 189.060 gia đình được công nhận gia đình văn hóa (tỷ lệ 87,1%).
c) Môi trường: Đến cuối năm 2013 có 21 xã đạt tiêu chí này, nhìn chung các xã không đạt tiêu chí này là do chưa có hệ thống thu gom chất thải, hệ thống xử lý nước thải theo quy định; nghĩa trang được quy hoạch nhưng khi thực hiện theo quy hoạch gặp rất nhiều khó khăn do thiếu kinh phí và tập quán của người dân. Hiện có 281/320 cơ sở sản xuất tập trung được xử lý chất thải bằng nhiều hình thức khác nhau, số được thu gom đưa đi xử lý tập trung, số còn lại chủ yếu tổ chức chôn lấp đơn giản hoặc tập kết ra các khu vực đất công cộng ngay tại địa phương.
Môi trường khu vực nông thôn hiện nay nhiều nơi đang bị ô nhiễm người dân còn bất cập, ô nhiễm môi trường do chăn nuôi cũng là vấn đề khá nan giải ở một số địa phương. Trong những năm tới cần tập trung vận động, hướng dẫn, tổ chức cho mỗi hộ dân đều tham gia tự cải tạo nơi ăn, ở văn minh, hợp vệ sinh. Sữa sang tường rào, cổng ngõ; cải tạo ao, vườn để có cảnh quan đẹp và có thu nhập. Đầu tư cải tạo nâng cấp hệ thống tiêu thoát nước khu dân cư. Mỗi xã đều có đội vệ sinh môi trường (lo thu gom rác thải, trồng cây xanh nơi công cộng…). Mỗi thôn, bản (hoặc liên thôn, bản) có 1 nhà văn hóa và có các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao. Xây dựng thôn, bản an ninh an toàn.
 5. Về xây dựng hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh và gìn giữ an ninh, trật tự xã hội
- Hệ thống tổ chức Chính trị - xã hội vững mạnh: Đến cuối năm 2013, có 78/92 xã đạt chuẩn, 14 xã còn lại chưa đạt, do chưa đủ số biên chế và cán bộ chưa đạt chuẩn. Hiện các xã, các huyện đã có kế hoạch đào tạo số cán bộ chưa đạt chuẩn và chính sách thu hút con em tại địa phương về làm việc tại địa bàn xã.
 - An ninh, trật tự xã hội theo từng tiêu chí:  Đến cuối năm 2013, có 92/92 xã đạt chuẩn.
6. Kết quả tổng hợp thực hiện theo Bộ tiêu chí Quốc gia về NTM
Trong thời gian ngắn, nguồn kinh phí đầu tư chưa nhiều, nhưng với sự chỉ đạo quyết liệt từ tỉnh, huyện, thị xã và các xã, đồng thời với sự hưởng ứng tích cực của người dân nên nhiều xã đạt trên 15 tiêu chí. Một số tiêu chí còn lại cần có nguồn lực của Trung ương và tỉnh sẽ hoàn thành trong giai đoạn 2014 và 2015 số lượng xã đạt chuẩn sẽ trên 24 xã.
a). Số xã thực hiện xây dựng nông thôn mới đạt tiêu chí, phân theo nhóm:
Nhóm 1:     đạt 19 tiêu chí                0 xã.
    Nhóm 2:     đạt từ 15 - 18 tiêu chí        24 xã.
    Nhóm 3:     đạt từ 10 - 14 tiêu chí        67 xã.
    Nhóm 4:     đạt từ 05 - 09 tiêu chí        01 xã.
    Nhóm 5:     đạt từ 00 - 04 tiêu chí          0 xã.
b). Phân theo tiêu chí số xã đạt (Chi tiết ở phụ biểu số 1):
- Tiêu chí số 1:  88 xã.  - Tiêu chí số 7:  57 xã.   - Tiêu chí số 13: 52 xã.
- Tiêu chí số 2:  18 xã.  - Tiêu chí số 8:  92 xã.   - Tiêu chí số 14: 62 xã.
- Tiêu chí số 3:  27 xã.  - Tiêu chí số 9:  56 xã.   - Tiêu chí số 15: 83 xã.
- Tiêu chí số 4:  84 xã.  - Tiêu chí số 10: 52 xã.  - Tiêu chí số 16: 79 xã.
- Tiêu chí số 5:  31 xã.  - Tiêu chí số 11: 09 xã.  - Tiêu chí số 17: 06 xã.
- Tiêu chí số 6:  08 xã.  - Tiêu chí số 12: 61 xã.  - Tiêu chí số 18: 53 xã.
                                                                             - Tiêu chí số 19: 85 xã.
 Theo phân loại trên các tiêu chí đạt còn thấp thuộc nhóm hạ tầng kỹ thuật như: Tiêu chí số 2, số 3 hệ thống thủy lợi; giao thông nông thôn; cần nguồn lực đầu tư lớn. Bên cạnh đó các tiêu chí như: cơ sở vật chất văn  hóa (TC 6); Thu nhập (TC10) tính theo mức 13 triệu/người năm; Tiêu chí về hộ nghèo (TC11); Tiêu chí về môi trường (TC17) là những tiêu chí đạt thấp, cần có giải pháp và tập trung chỉ đạo quyết liệt, số xã đạt chuẩn sẽ cao hơn.   
7. Đánh giá chung về triển khai thực hiện Chương trình và kiến nghị đề xuất
Sau 3 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới, hầu hết các huyện, thị xã, xã, thôn, bản đã tích cự triển khai và đạt được nhiều kết quả tốt như: Đã nâng cao nhận thức của người dân về Chương trình xây dựng nông thôn mới; hình thành được bộ máy tổ chức từ tỉnh xuống huyện, thị xã, xã, thôn, bản; xây dựng được hệ thống cơ chế, chính sách để triển khai Chương trình và đạt được một số kết quả về xây dựng cơ sở hạ tầng và hỗ trợ phát triển sản xuất. Nhờ vậy nên bộ mặt nông thôn đã bước đầu thay đổi.
- Tuy nhiên, thực hiện Chương trình vào thời điểm thế giới và trong nước đang suy thoái kinh tế, nguồn vốn bố trí còn hạn chế, chưa tương xứng với mục tiêu, nội dung của Chương trình đề ra.
- Công tác chuyển đổi cơ cấu, cây trồng vật nuôi để phát triển sản xuất nông nghiệp thành hàng hóa còn chưa có chuyển biến. Tổ chức, hệ thống kinh tế hợp tác, nòng cốt HTX nông nghiệp, được duy trì nhưng hoạt động chưa có hiệu quả. Công tác đào tạo nghề cho nông dân, lao động nông thôn chất lượng còn thấp.
- Huy động nguồn lực từ các nguồn ngoài ngân sách còn hạn chế, nhất là từ các doanh nghiệp, tín dụng, nội lực đóng góp từ người dân...,Nhiều tổ chức, đoàn thể chưa thực sự tham gia vào Chương trình xây dựng nông thôn mới.
III. KẾ HOẠCH TRIỂN KHAI NĂM 2014 - 2015
1. Chỉ số chung
- Số xã đạt chuẩn: Năm 2014, có 5 xã; năm 2015 có khoảng 24 xã đạt chuẩn nông thôn mới theo Bộ tiêu chí Quốc gia.
- Số tiêu chí đạt chuẩn bình quân của nhóm phấn đấu đạt chuẩn 2015, năm 2014 và 2015 đạt 04 tiêu chí/xã/năm.
- Số tiêu chí đạt chuẩn bình quân của nhóm xã còn lại, năm 2014 và 2015 đạt  2 - 3 tiêu chí/xã/năm.
- Số tiêu chí đạt chuẩn bình quân chung của toàn tỉnh, năm 2014 và 2015: 03 tiêu chí/xã/năm.
2. Công tác quản lý, chỉ đạo Chương trình
Tập trung sức chỉ đạo quyết liệt để các xã điểm huyện điểm, đạt chuẩn về nông thôn mới vào năm 2015. Thực hiện theo trình tự tiêu chí “dễ làm trước khó làm sau”; tiêu chí phi vật chất, các tiêu chí không cần hoặc cần ít nguồn lực đầu tư, tập trung triển khai thực hiện trước. Các xã mỗi năm phấn đấu đạt thêm 2 đến 3 tiêu chí.
Phát huy vai trò, trách nhiệm của Bí thư, Trưởng thôn, Trưởng ban công tác mặt trận thôn trong tổ chức thực hiện chương trình, nhất là việc huy động sự đóng góp, giải phóng mặt bằng, chỉnh trang đường làng, ngõ xóm, vườn tược...
Ưu tiên nguồn lực và sự chỉ đạo cho các xã điểm, tạo điều kiện cho một số xã về trước (2-3 xã) cuối năm 2013 hoặc năm 2014 làm hình mẫu của nông thôn mới để rút kinh nghiệm cho chỉ đạo và người dân học tập kinh nghiệm để nhân rộng. Ban Chỉ đạo tỉnh, huyện, thị xã phải giao nhiệm vụ cho các Đoàn thể chính trị tham gia xây dựng nông thôn mới theo hướng mỗi Đoàn thể được giao và chịu trách nhiệm về “sản phẩm cuối cùng” gắn với địa bàn được phân công phụ trách.
Các thành viên Ban Chỉ đạo tỉnh, huyện, thị xã tăng cường kiểm tra, thúc đẩy tiến độ xây dựng nông thôn mới ở các xã. Tăng cường sự giám sát của Tỉnh ủy và Hội đồng nhân dân tỉnh trong thực hiện mục tiêu xây dựng nông thôn mới. Kết quả xây dựng nông thôn mới phải đưa vào tiêu chuẩn để xét thi đua ở các đơn vị. Tổ chức, đánh giá công nhận các xã đạt chuẩn, các xã đạt nhiều tiêu chí và thực hiện khen thưởng xứng đáng cho nơi làm tốt.
Vận động, giao trách nhiệm các Ngành, các Cấp nhận đăng ký đỡ đầu cho các xã phấn đấu thực hiện đạt chuẩn NTM vận động các doanh nghiệp tham gia đầu tư, hỗ trợ các xã xây dựng nông thôn mới. Lồng ghép các DA vốn đầu tư của nước ngoài, có các xã phấn đấu đạt chuẩn NTM giai đoạn 2011 - 2015 nằm trong vùng DA xây dựng kế hoạch giúp các địa phương đó thực hiện được một hạng mục về NTM.
3. Công tác tuyên truyền, vận động và thi đua xây dựng NTM
Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, làm cho mọi người dân hiểu rõ nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới “chủ thể là người dân”; là động lực chính, nhà nước ban hành chủ trương, chính sách, đầu tư hỗ trợ...để huy động mọi nguồn lực thực hiện Chương trình. Tuyên truyền cho người dân những mô hình những cách làm hay về phát triển kinh tế gia đình, xoá đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập; ăn ở, sinh hoạt hợp vệ sinh...để dân học tập. Coi trọng việc phổ biến rộng rãi các mô hình có hiệu quả, cách làm hay trong thực hiện các nội dung nông thôn mới.
Vận động, tuyên truyền sâu, rộng trong cư dân nông thôn để họ hiểu và tự giác tham gia công cuộc xây dựng nông thôn mới. Bên cạnh cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư gắn với Xây dựng nông thôn mới” do Mặt trận Tổ Quốc chủ trì, cần tập trung tuyên truyền mạnh mẽ trên các phương tiện truyền thông đại chúng; có trang tin về xây dựng nông thôn mới để giới thiệu nội dung, phương pháp, cách làm và ý kiến trao đổi các mô hình làm tốt ở các địa phương…Ở cấp xã, chú trọng tạo điều kiện để người dân tham gia vào Quy hoạch Đề án xây dựng nông thôn mới của xã, đồng thời tạo sự quan tâm của toàn xã hội đến nông thôn và suy nghỉ đóng góp cho xây dựng nông thôn mới
4. Công tác đào tạo, tập huấn
Ban Chỉ đạo tỉnh, huyện, thị xã cụ thể hóa nội dung đào tạo, tập huấn kiến thức xây dựng nông thôn mới cho đội ngũ cán bộ vận hành nhất là cán bộ cấp xã và thôn, bản để làm nồng cốt cho xây dựng nông thôn mới. Tỉnh, huyện, thị xã cần cũng cố đội ngũ giảng viên có kinh nghiệm, am hiểu về xây dựng nông thôn mới để đáp ứng yêu cầu về nhiệm vụ đào tạo bồi dưỡng cán bộ cho những năm tiếp theo.
Văn phòng điều phối Chương trình trên cơ sở tài liệu hướng dẫn của trung ương và kinh nghiệm của tỉnh bạn để biên soạn tài liệu tập huấn phù hợp.
5. Huy động và bố trí nguồn lực.
Trong 28 xã chỉ đạo điểm Ban chỉ đạo Chương trình XDNTM đã tổ chức rà soát đánh giá cụ thể từng tiêu chí và xem xét nhu cầu đầu tư tối thiểu để đạt xã chuẩn về nông thôn mới khoảng 470 tỷ đồng, theo các nguồn như sau:
Tổng vốn đầu tư xây dựng khu vực nông thôn:      469,084 tỷ đồng.
Trong đó:     1. Ngân sách Trung ương và ngân sách Tỉnh:  329,748 tỷ đồng.            - Vốn Chương trình MTQG NTM:          294,968 tỷ đồng.
- Vốn Chương trình MTQG giảm nghèo:          5,880 tỷ đồng.
- Vốn các Chương trình MTQG khác:                  25,900 tỷ đồng.
2. Vốn NS thị xã, huyện, xã, nhân dân và các nguồn lực huy động hợp pháp khác, bao gồm cả hỗ trợ lúa nước:                     93,206  tỷ đồng.
3. Vốn viện trợ lồng ghép:               46,130 tỷ đồng.
Hàng năm, tỉnh căn cứ  nguồn vốn vay ưu đãi của Nhà nước,cân đối để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu bao gồm các hạng mục công trình: giao thông, thuỷ lợi, Nhà văn hoá xã, Trụ sở HĐND và UBND xã…
   
6. Về chỉ đạo thực hiện các nội dung xây dựng NTM
6.1. Lập Quy hoạch và Đề án xây dựng NTM
UBND, Ban chỉ đạo các huyện, thị xã chỉ đạo rà soát, điều chỉnh lại Quy hoạch phù hợp với thực tế của địa phương, lợi thế của vùng đảm bảo Quy hoạch có chất lượng và kết nối được Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của huyện và của Ngành để Quy hoach và đề án có tính khả thi cao. Yêu cầu rà soát là không đặt ra nhu cầu quá cao đối với từng tiêu chí, mà trong giai đoạn trước mắt chỉ cần đặt ra mức tối thiểu để phấn đấu, nhất là đối với tiêu chí hạ tầng về giao thông (trục thôn; đường ngõ, xóm; trục chính nội đồng), về thủy lợi (kiên cố hóa kênh mương). Đối với Quy hoạch sản xuất chi tiết cần tập trung điều chỉnh các nội dung: Quy hoạch vùng sản xuất cho các loại cây trồng, vật nuôi có chất lượng đem lại hiệu quả cao, dễ tiêu thụ; vùng sản xuất phải tập trung để thực hiện sản xuất theo hướng hàng hoá.
6.2. Phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập cho người dân
Tập trung chỉ đạo sản xuất nâng cao thu nhập cho nhân dân là nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng nông thôn mới. Đẩy mạnh chỉ đạo chuyển đổi cơ cấu sản xuất phát triển nông nghiệp hàng hoá, đầu tư hỗ trợ sản xuất các sản phẩm là thế mạnh của địa phương để tăng thu nhập, nâng cao đời sống của các hộ dân.
Mỗi thôn, bản, xã xây dựng ít nhất một mô hình sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung (hướng vào cây con phù hợp, nghề lợi thế đã được lựa chọn trong đề án xây dựng nông thôn mới của xã).
Lựa chọn các mô hình để đầu tư hỗ trợ phát triển sản xuất cần thực hiện theo phương châm: Chọn mô hình có khả năng nhân rộng, sản phẩm làm ra có thị trường tiêu thụ, tốt nhất là mô hình để khai thác thế mạnh lợi thế của địa phương... cùng với các mô hình để sản xuất ra sản phẩm, cây, con mới, cần quan tâm các mô hình hỗ trợ nâng cao hiệu quả sản xuất các sản phẩm, cây con đang sản xuất. Thực hiện đồng bộ các chính sách an sinh xã hội. Tập trung giải quyết việc làm và ổn định đời sống nhân dân. Thực hiện tốt các chương trình giảm nghèo và đảm bảo giảm nghèo bền vững.
Tổ chức đào tạo nghề cho người dân để có thể tham gia sản xuất các nghề mới có thu nhập, phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương; đào tạo nông dân làm nông nghiệp theo Chương trình khuyến nông; Triển khai nhanh công tác dạy nghề cho nông dân, trước hết là dạy nghề đáp ứng cho đề án phát triển sản xuất đã được phê duyệt.
6.3. Xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu
Trong giai đoạn 2015 nguồn Chương trình MTQG, nguồn ngân sách tỉnh sẽ ưu tiên đầu tư cho 28 xã. Trong đó ưu tiên cho xã đạt nhiều tiêu chí có khả năng về đích sớm của hai huyện điểm; ưu tiên đầu tư hạ tầng phục vụ sản xuất, giáo dục, y tế, dân sinh trước (giao thông, nước sinh hoạt...). Tập trung huy động các nguồn lực để đầu tư xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp hạ tầng. Chỉ đạo các thôn, ban vận động, huy động sự đóng góp của nhân dân trong thôn, của con em địa phương làm ăn xa ở xã để xây dựng nhà văn hóa thôn, đường ngõ, xóm.
Ưu tiên vốn đầu tư cho 02 xã (ngoài xã điểm) đã đạt được nhiều tiêu chí có tính chất bền vững và có kế hoạch đạt chuẩn nông thôn mới trong năm 2014, cụ thể:
- Xã Thuỷ Tân, thị xã Hương Thuỷ đã đạt 16 tiêu chí, 03 tiêu chí chưa đạt: Cơ sở vật chất văn hoá, Môi trường, hộ nghèo. Xã đề nghị cấp trên đầu tư từ 4 - 4,5 tỷ đồng xây dựng nhà văn hoá và khu thể thao xã, thì xã sẽ chỉ đạo thực hiện đạt chuẩn nông thôn mới vào năm 2014.
- Xã Phong Hải, huyện Phong Điền đã đạt 15 tiêu chí, còn 4 tiêu chí chưa đạt là: Giao thông, Thuỷ lợi, Tổ chức sản xuất và Môi trường. Xã đề nghị cấp trên đầu tư từ 9 - 10 tỷ đồng xây dựng hệ thống thuỷ lợi để nuôi trồng thuỷ sản (chủ yếu) và một số tuyến GTNT, thì xã thực hiện đạt chuẩn nông thôn mới vào năm 2014.
Tiêu chí số 4 - Điện, cả 92 xã xây dựng nông thôn mới đều đạt chuẩn theo tiêu chí, nhưng thực tế đến nay còn 8 xã (A Roàng, Hồng Thuỷ huyện A Lưới; Điền Hoà, Phong Bình, Phong Chương huyện Phong Điền; Phú Diên, Vinh An huyện Phú Vang; Vinh Hiền huyện Phú Lộc) hệ thống điện chưa về đến các thôn, một số thôn có điện do dân kéo về quá xa không đảm bảo an toàn, một số trạm biến áp công suất thấp nên không đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống của dân. Đề nghị UBND tỉnh chỉ đạo ngành điện đầu tư  nâng cấp và xây dựng hệ thống điện cho các xã này trong giai đoạn từ 2014 - 2015.
6.4. Về phát triển giáo dục, y tế, văn hoá và bảo vệ môi trường
Tập trung vận động, hướng dẫn, tổ chức cho mỗi hộ dân đều tham gia tự cải tạo nơi ăn, ở văn minh, hợp vệ sinh. Sửa sang tường rào, cổng ngõ; cải tạo ao, vườn để có cảnh quan đẹp và có thu nhập. Đầu tư cải tạo nâng cấp hệ thống tiêu thoát nước khu dân cư. Mỗi xã đều có đội vệ sinh môi trường (lo thu gom rác thải, trồng cây xanh nơi công cộng…). Mỗi thôn, bản (hoặc liên thôn, bản) có 1 nhà văn hóa và có các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao. Xây dựng thôn, bản an ninh an toàn.
6.5. Về xây dựng hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh và gìn giữ an ninh, trật tự xã hội.
a) Về hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh: 
Đến cuối năm 2013, có 78/92 xã đạt chuẩn theo tiêu chí, 14 xã còn lại không đạt chuẩn do cán bộ không đạt tiêu chuẩn nhưng chưa thể thay thế, một số xã (ở vùng núi, vùng sâu vùng xa) chưa có cán bộ để bố trí theo qui định. Do đó phải cần có sự chỉ đạo từ các cấp chính quyền từ tỉnh đến xã nhằm tăng cường đội ngũ cán bộ có trình độ năng lực trong xây dựng nông thôn mới.
b) Về an ninh, trật tự xã hội.
Cả 92/92 xã thực hiện xây dựng nông thôn mới đã đạt tiêu chí nông thôn mới. Tuy nhiên, ngoài những nguyên nhân chủ quan còn có nhiều nguyên nhân khách quan làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội trên địa bàn xã. Để thực hiện tốt và đảm bảo tiêu chí vẫn đạt chuẩn trong những năm kế tiếp thì chính quyền ở cấp xã, thôn (bản) cần tăng cường công tác tuyên truyền, vận động mọi người dân thực hiện sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật của Nhà nước; đẩy mạnh phong trào “Toàn dân chung tay xây dựng nông thôn mới”.
IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT.
1). Kính đề nghị Ban chỉ đạo Chương trình nông thôn mới của Trung ương có văn bản hướng dẫn cụ thể về tiêu chí 13 “hình thức tổ chức sản xuất”, hiện nay một số xã không có hợp tác xã hoặc các tổ hợp tác, nhưng các tiêu chí khác đạt yêu cầu việc xét xã đạt chuẩn nông thôn mới có đảm bảo đúng quy định không?
2). Đề nghị Ban chỉ đạo Chương trình sớm ban hành Quy chế xét công nhận xã đạt chuẩn về nông thôn mới để làm căn cứ xét công nhận.
3). Kính đề nghị Ban chỉ đạo Trung ương xem xét tăng nguồn vốn đầu tư hỗ trợ của Chương trình đáp ứng được mục tiêu đề ra theo Quyết định số 800 của Thủ tướng Chinh phủ về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, là một trong những Chương trình lớn được người dân kỳ vọng nhiều nhất.

Các tin khác
Xem tin theo ngày